Thứ Ba, 5 tháng 8, 2014

GIỚI THIỆU GIỐNG MÈ ĐEN 2 VỎ BÌNH THUẬN



1. Tác giả: Nguyễn Văn Chương, Võ Văn Quang và cộng tác, Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam.
2. Nguồn gốc
Giống mè đen 2 vỏ Bình Thuận là giống bản địa, đã được phục tráng theo Tiêu chuẩn ngành đối với cây trồng tự thụ, được Trung tâm Khảo kiểm nghiệm Giống, Sản phẩm cây trồng vùng Nam Bộ  kiểm định giống Siêu nguyên chủng năm 2011.
3. Những đặc điểm chính
Giống mè đen 2 vỏ Bình Thuận có dạng cây thẳng đứng; thân màu xanh; thời gian ra hoa từ 25 – 27 ngày sau trồng; thời gian sinh trưởng khoảng 75 - 81 ngày sau trồng; chiều cao cây là 167,1±9,5 cm; lá có lông màu trắng nhỏ, ít lông; hoa có lông màu trắng nhỏ và ít; độ nứt quả trung bình, màu vỏ quả xanh; quả có có lông ít; bề mép hạt nhăn, bóc vỏ được; kết cấu vỏ hạt là 2 vỏ; vỏ hạt màu đen; số múi/quả là 4 – 5; khối lượng hạt khô/cây là 3,73±0,14 g/cây, năng suất đạt 0,9 – 1,4 tấn/ha, hàm lượng dầu 47,5%, hàm lượng protein 18,8%. Giống chống chịu tốt với bệnh Héo tươi (Fusarium oxysporium F seami),  Đốm lá (Pseudomonas seami).
4. Hướng sử dụng và yêu cầu kỹ thuật                                                                                       
 - Hướng sử dụng : Tiêu dùng nội địa và xuất khẩu
- Thời vụ: Giống mè đen 2 vỏ Bình Thuận có thể trồng quanh năm, vụ Đông Xuân gieo từ 15/11- 15/12, vụ Xuân Hè gieo vào tháng 15/1- 15/ 2.
- Mật độ khoảng cách: trồng theo hàng với khoảng cách 60cm x 15 cm x 2-3 hạt/hốc.
- Phân bón cho 1 ha: 120N + 60 kg P2O5 +60 K2O  + 300 kg vôi/ha. Có thể phun thêm phân bón lá tuỳ theo sinh trưởng của cây trồng.
5. Điển hình đã áp dụng thành công
Giống đã được trồng và phát triển tốt tại Bình Thuận.
6. Địa chỉ liên hệ:
Th.S Võ Văn Quang; Điện thoại: 0986.898.196
Email: quangvanvo33@yahoo.com

Thứ Năm, 19 tháng 9, 2013

Kết quả chọn tạo và phát triển giống sắn KM419

Tác giả: Hoàng Kim, Trần Ngọc Ngoạn, Võ Văn Quang, Nguyễn Thị Lệ Dung, Nguyễn Phương, Hoàng Long, Đào Trọng Tuấn, Nguyễn Minh Cường, Trần Công Khanh, Nguyễn Văn Bộ, Hernan Ceballos, Manabu Ishitani.
Nguồn: Trong sách Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia. Diễn đàn Khuyến nông và Nông nghiệp lần thứ 18. Chuyên đề:Một số giải pháp phát triển sắn bền vững. Tây Ninh ngày 26-8-2013, trang 58-83.
 Địa chỉ liên hệ: 1)Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh (NLU), Linh Trung, Thủ Đức,TP. Hồ Chí Minh; Website: http://cayluongthuc.blogspot.com http://foodcrops.vn; Email: hoangkim@hcmuaf.edu.vn, 2)Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên (TUAF), xã Quyết Thắng, thành phố Thái Nguyên; http://www.tuaf.edu.vn/ 3)Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (IAS), 121 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; http://www.iasvn.org.vn 4)Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS), Văn Điển, Thanh Trì, Hà Nội, http://www.vaas.org.vn 5)Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới (CIAT), A.A. 6713 Cali, Colombia http://www.ciat.cgiar.org

Tóm tắt
Giống sắn KM 419 được chọn tạo từ cặp lai BKA900 x [KM 98-5 x KM98-5] tại Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệp Nông nghiệp Hưng Lộc, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (IAS) năm 2003. Việc khảo sát tập đoàn, so sánh, khảo nghiệm, nhân và trình diễn giống được thực hiện bởi Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh và Mạng lưới Sắn Việt Nam. Giống sắn KM 419 có đặc điểm: thời gian sinh trưởng 7-10 tháng, năng suất củ tươi 36,9 tấn / ha, hàm lượng tinh bột 28,3%, năng suất tinh bột 10,4 tấn /ha, (so với KM94 đạt năng suất củ tươi 29,3 tấn/ ha, hàm lượng tinh bột 28,2 %, năng suất tinh bột 8,2 tấn/ ha). Giống sắn KM419 cây cao vừa phải, thân thẳng, tán gọn, nhặt mắt, lá xanh đậm, ngọn xanh, cọng phớt đỏ, dạng củ đồng đều, thịt củ màu trắng, thích hợp với chế biến và thị trường; nhiễm nhẹ đến trung bình bệnh cháy lá. Giống sắn KM419 được phát hiện từ đánh giá nguồn gen 37.210 hạt giống sắn lai hữu tính tại Việt Nam, 24.073 hạt giống sắn nhập nội từ CIAT, 38 giống sắn tác giả nhập nội, 31 giống sắn địa phương. Giống sắn KM 419 hiện được trồng ước trên 8.000 ha ở các tỉnh Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Phước, Bình Dương, Ninh Thuận, Đắk Lắk, Kon Tum, Bắc Thái, Yên Bái, … Mondunkiri, Kratie, Kampong Cham. Giống KM419 được nông dân các địa phương ưa chuộng và phát triển nhanh trong sản xuất với tên gọi sắn giống cao sản siêu bột Nông Lâm.
Tham khảo thêm tại: http://cayluongthuc.blogspot.com/2013/09/ket-qua-chon-tao-va-phat-trien-giong.html 

Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2013

GIỚI THIỆU CÂY MÈ (CÂY VỪNG)



-Tên gọi khác: Cây vừng, Hồ Ma (vị thuốc)
-Tên tiếng Anh: Sesame, Semsem, Gingelly
-Tên khoa học: Sesamum indicum L.
1. Nguồn gốc
Cây mè có tên khoa học là (Sesamum indicum Linn). Nguồn gốc có từ Châu Phi. Có nhiều ý kiến cho rằng Ethiopia là nguyên sản của giống mè trồng hiện nay. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng vùng Afghan - Persian mới là nguyên sản của các giống mè trồng. Mè là loại cây có dầu được trồng lâu đời (khoảng 2000 năm trước công nguyên). Sau đó được đưa vào vùng tiểu Á (Babylon) và được di về phía tây - vào châu Âu và phía nam vào châu Á dần dần được phân bố đến Ấn Độ và một số nước nam Á Trung Quốc. Ấn Độ được xem như là trung tâm phân bố của cây mè. Ở Nam Mỹ, mè được du nhập qua từ Châu Phi sau khi người Âu Châu khám phá ra ở Châu Mỹ vào năm 1492 (do Chritophecoloms người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha) đem mè đi bán.
2. Phân Loại
Trên thế giới, mè được trồng là Sesamun indicum Linn. có số lượng nhiễm sắc thể 2n = 26, ngoài ra còn có S. Capennsen, S. alanum, S. chenkii, S. laniniatum có 2n = 64.
Mè có nhiều giống và nhiều dòng, khác nhau về thời gian sinh trưởng, màu sắc của hạt và dạng cây.
Một giả thuyết cho rằng có một đoàn du khảo của Liên Xô đi khắp thế giới đã thu được 500 mẫu, chia ra 111 dạng khác nhau nhưng nói chung hiện nay phân loại mè dựa vào một số đặc tính thực vật như sau:
- Thời gian sinh trưởng: phân loại giống có thời gian sinh trưởng dài ngày (trên 100 ngày) hoặc giống sinh trưởng ngắn ngày (dưới 100 ngày). Cách phân loại này rất quan trọng khi chọn giống để luân canh với cây trồng khác như lúa, bắp, đậu, khoai...
- Số khía trên trái mè: phân loại các giống mè bốn khía, sáu khía, tám khía, phân loại này dùng để chọn cỡ hạt nhỏ lại.
- Trái bị nứt khi thu hoạch hay không bị nứt: phân loại này giúp cho việc thu hoạch được đồng loạt hay không vì những giống không nứt trái khi thu hoạch không bị nứt hạt.
- Màu hạt: đây là cách phân loại phổ biến nhất. Phân biệt hai loại mè:
Mè đen (Sesamun indicum L.), Mè vàng (Sesamun orientalis L.),Mè trắng và mè đỏ nâu.
Mè đen cho màu có phẩm chất tốt và hàm lượng dầu cao hơn mè trắng (nhất là mè đen một vỏ), mè đen có giá trị xuất khẩu cao hơn mè trắng.
Vỏ hạt phân biệt mè một vỏ với mè hai vỏ, vì mè một vỏ cho dầu cao hơn mè hai vỏ.
Ngoài các cách phân loại trên, người ta còn phân loại mè theo thời vụ trồng, số hoa ở nách lá, sự phân cành trên thân.
Một số giống được trồng phổ biến hiện nay:
* Nhóm mè vàng
- Mè vàng An Giang: trổ hoa 30 ngày sau khi trồng phân cành ít (2-3 cành trên cây), thân màu xanh, chiều cao khoảng 80cm, thời gian sinh trưởng ngắn, khoảng 85 ngày. Năng suất bình quân 1,2 tấn/ha, giống này có sáu hoa, trái có tám khía, trồng phổ biến ở vùng Châu Phú (An Giang).
- Mè vàng Miền Đông: trổ hoa 30 ngày sau khi trồng, phân cành trung bình (4 cành/cây), thân màu xanh đậm, chiều cao thấp (70 cm), thời gian sinh trưởng ngắn (80 ngày), năng suất khá cao (1,5 tấn/ha). Giống trồng phổ biến ở Đồng Nai, Sông Bé trên vùng đất cao, trái có bốn đến tám khía.
- Mè vàng Cồn Khương: Trổ hoa ngày thứ 35 sau khi trồng, phân cành 4-6 cành/cây), chiều cao 90 cm, thời gian sinh trưởng 75 ngày, năng suất 1,4 tấn/ha. Trồng phổ biến ở Cồn Khương (Cần Thơ), trái có bốn đến sáu khía.
* Nhóm mè đen:
- Mè đen Trà Ôn: trổ hoa ngày thứ 35 sau khi gieo, phân cành nhiều (4-6 cành/cây), chiều cao 90 cm, thời gian sinh trưởng 95 ngày, năng suất khá cao (1,4 tấn/ha). Trồng phổ biến ở Trà Ôn (Vĩnh Long), trái có từ 4 đến 6 khía.
- Mè đen Campuchia: nhập từ Ấn Độ, phân cành rất nhiều, có cả cành cấp hai mang trái, chiều cao từ 90 - 100cm, thời gian sinh trưởng 100 ngày, năng suất cao nhất trong các giống (1,6 tấn/ha), tuy nhiên hạt có nhiều màu sắc khác nhau (có cả đỏ, trắng, nâu), rất khó khi chọn hạt để xuất khẩu.
- Mè đen 2 vỏ Bình Thuận: có nguồn gốc từ Bình Thuận, số nhánh trên thân từ 2 – 4 nhánh; trên thân có lông màu trắng nhỏ và ít; thời gian ra hoa từ 25 – 27 ngày sau trồng; thời gian sinh trưởng khoảng75 -  81 ngày sau trồng;Năng suất có thể đạt được 1,4 tấn/ha.
* Nhóm mè trắng:
Giống vừng V6: Thời gian sinh trưởng 75 – 80 ngày. Trồng được 2 vụ trong năm. Hàm lượng dầu trong hạt 52% cao hơn hai loại vừng đen và vừng vàng. Năng suất trung bình 8 – 10 tạ/ha, thâm canh cao đạt 13 – 14 tạ/ha.  
3. Công dụng và giá trị kinh tế.
 3.1. Công dụng
a. Hạt mè.
- Được sử dụng rất phổ biến để chế biến nhiều dạng thức ăn (kẹo mè, chè mè...). Trong dân gian, còn dùng mè để nấu cháo (nếp với mè) cho người mẹ cho con bú rất tốt.
b. Dầu mè
- Tiêu thụ nhiều nhất, dầu mè rất tốt, khác với các loại dầu khác là không bị oxy hóa nên nên không chuyển thành mùi khó chịu. Vì trong mè có chứa chất sesamol, ngăn cản quá trình oxy-hóa.
Trong kỹ nghệ, dầu mè sử dụng để bôi trơn máy móc cao cấp: máy bay, máy dùng trong khoa học kỹ thuật, dầu dùng để pha sơn, pha vecni rất tốt vì có màu láng bóng.
Trong y học, dùng để làm thuốc viên con nhộng. Dầu mè còn dùng trong mỹ phẩm, ở Ấn Độ, người ta còn dùng dầu mè để bôi vào tóc cho bóng mượt.
3.2. Giá trị dinh dưỡng.
Mè có giá trị dinh dưỡng cao, trong hạt mè có chứa: 45 - 55% dầu, 19 - 20% Protein, 8 - 11% đường, 5% nước, 4 - 6% chất tro. Thành phần axit hữu cơ chủ yếu của dầu mè là 2 loại acid béo chưa no sau:
- Axit oleic (C18 H34 O2): 45,3 - 49,4%.
- Axit linoleic (C18 H32 O2): 37,7 - 41,2%.
 Nếu so sánh hàm lượng acid amin có trong bột mè và trong thịt, ta thấy các acid amin có trong bột mè gần tương đương với acid amin có trong thịt.

Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2013

Giới thiệu giống đậu xanh



Cây đậu xanh (Mungbean, Green bean) có tên khoa học Vigna radiata (L) là cây đậu đỗ quan trọng đứng hàng thứ ba sau đậu nành và đậu phụng (2 loại cây công nghiệp ngắn ngày). Đậu xanh có 2 nhóm giống: Nhóm giống địa phương và nhóm giống cải tiến.
          Nhóm giống địa phương: Là những giống đã được trồng từ lâu đời ở nước ta. Tên giống thường căn cứ vào màu sắc và dạng hạt.
Ví dụ: đậu mốc (vỏ hạt mốc), đậu da tre (hạt màu da tre), đậu tiêu (hạt nhỏ như hạt tiêu), đậu mỡ (hạt bóng mỡ). Những giống hạt mốc thường nhỏ nhưng phẩm chất ngon. Hạt đậu mỡ to hơn, năng suất cao hơn đậu mốc nhưng phẩm chất kém, giá trị thương phẩm thấp. Điểm nổi bật là các giống địa phương đều thuộc nhóm năng suất thấp, không chịu phân, dễ lốp đổ.
          Nhóm giống cải tiến: Là những giống nhập nội trong thời gian gần đây hoặc những giống lai tạo trong nước từ các nguồn gen bố mẹ có đặc điểm nông học tốt.
         
Đặc điểm chung của nhóm giống cải tiến là sinh trưởng khoẻ, chịu phân bón và có tiềm năng năng suất cao (15 - 20 tạ/ha), phẩm chất tốt (các giống có hạt bóng mỡ cũng có chất lượng hạt cao - chất lượng hạt không phụ thuộc vào màu sắc vỏ hạt), hạt to (khối lượng 1.000 hạt đạt trên 50 g).
          Đặc điểm sinh trưởng quan trọng là tầng quả thường vượt trên tầng lá vì vậy dễ chăm sóc quả và dễ thu hái. Trong sản xuất hiện nay, nhóm giống cải tiến đang được phổ biến nhanh với các giống như ĐX.044, No.9, VN.93.1, T135, HL89-E3 và V94-208...
          Thực tế sản xuất đậu xanh cho thấy rằng: Muốn đậu xanh trở thành cây kinh tế, nhất thiết phải sử dụng các giống cải tiến trên. Chọn giống đậu xanh cũng còn cần phải căn cứ vào mục đích sử dụng. Đậu để làm giá đỗ, yêu cầu giống có hạt nhỏ, kích thước hạt đồng đều, sức sống của hạt khoẻ. Đậu làm hàng xáo và các chế biển khác chỉ cần có năng suất  cao, chất lượng hạt ngon, bở để dễ chế biến.