Lúa miến
(Sorghum bicolor L. Moench) là cây tự
thụ phấn, 2n = 20. Nó là một trong năm cây ngũ cốc quan trọng trên thế giới và
là khẩu phần ăn chính của hơn 500 triệu người ở hơn 30 nước. Đây là loại cây trồng
có nhiều công dụng như làm bánh mì, bánh quy, tinh bột, đường, xi rô, cồn, bia,
sản xuất mạch nha. Lúa miến là thực vật C4 nên sử dụng hiệu quả bức
xạ mặt trời, có thể sinh trưởng phát triển trên đất nghèo dinh dưỡng, pH từ 5 –
8,5, nhu cầu nước thấp, có khả năng chịu hạn, úng, đất mặn hoặc kiềm. Thân lúa
miến ngọt có hàm lượng đường cao 16 – 23 % brix, là nguồn nguyên liệu tốt để sản
xuất ethanol nhiên liệu.
Phân loại cây lúa miến ngọt (Kimber,
2000)
Giới: Plantae
Không phân hạng: Angiosperms
Bộ: Poales
Họ: Poaceae
Tông: Andropogoneae
Tộc phụ : Sorghinae
Chi: Sorghum moench
Chi phụ: Sorghum
Loài Sorghum bicolor
Theo trích dẫn của Bantilan và ctv (2004),
sưu tập cây lúa miến đã được miêu tả đầu tiên bởi Linne năm 1753 với tên
gọi là Holcus. Tuy nhiên, năm 1794 Moench đã phân loại lại
bộ sưu tập này như một chi riêng biệt Sorghum(Celarier,
1959). Chi Sorghum thuộc tộc Andropogoneae,
và phân ra thành ba loài (de Wet, 1978): Sorghum
halepense (L.) Pers.
sống lâu năm phía đông nam Eurasia đến Ấn Độ. S. propinquum (K.) Hitch.
Sống lâu năm ở Srilanka và nam Ấn Độ và từ phía đông Burma đến các đảo phía
đông nam châu Á. S. bicolor (L.) Moench (Plate) gồm tất cả cây thử thách hàng năm trong phân loại cây lúa miến
đã công nhận bởi Snowden (1936, 1955). S. bicolor bao gồm tất cả thử thách thuần hóa, phân bố rộng và phức hợp sinh
thái biến thiên ở châu phi và có nguồn gốc từ sự xen giống giữa cây lúa miến và
các loài có quan hệ gần với chúng.
Nguồn gốc
Theo trích dẫn của Bantilan và ctv (2004), cây lúa miến
có lẽ được thuần hóa đầu tiên ở Savanna giữa tây Ethiopia và phía đông Chad
cách nay 5000 – 7000 năm (Doggett và Prasada Rao, 1995). Các dòng hoang dại của
sorghum bicolor ssp. verticilliflorum được cho là tổ tiên của cây lúa miến trồng
ngày nay (Harlan, 1972). Từ điểm phát sinh cây lúa miến được đưa đến các vùng
khác (chủ yếu là thông qua tàu buôn): đến Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Á, Trung Đông,
châu Mỹ, Tây, Bắc và Nam Phi.
Ở châu Phi, cây lúa miến được biết đến với nhiều tên gọi
khác nhau như guinea-corn, dawa hay sorgho ở Tây Phi, durra ở Sudan, mshelida ở
Ethiopia và eritrea, mtama ở Đông
Phi, kafffircorn ở Nam Phi, mabele hay amabele ở các quốc gia Nam Phi. Ở Ấn Độ, nó được biết đến với tên gọi
như jowar (Hindi), jonna (Andhra Pradesh), cholam (Tamil Nadu) và jola (Karnataka).
Năm chủng lúa miến canh tác cơ bản - Bicolor, Kafir, Guinea, Caudatum và Durra - đã được công nhận (Harlan và De
Wet, 1972). Chủng Bicolor được miêu tả
là khoảng trống và chiều dài cụm hoa, mày hoa thường xuyên kèm theo hạt khi
chín. Kafir được tìm thấy nam xích đạo
châu Phi, biểu hiện cân đối và sát góc cầu hạt với mày ngắn hơn hạt. Guinea chiếm ưu thế ở Tây Phi và dễ nhận
ra bởi chiều dài và sự không cân xứng, mày mở ra nhìn thấy khi hạt chín. Hạt của
dòng caudatum thì phồng lên không cân
xứng. Chủng này tìm thấy ở Trung Phi và là gần nơi phát sinh. Dura biểu hiện hạt dạng trứng ngược và
có dạng hình V tại đáy (Bantilan và ctv, 2004).
Phân bố
Theo Bantilan và ctv (2004), ngày nay, cây lúa miến được
phân bố từ mực nước biển đến độ cao 2200m so với mực nước biển và từ 500N
ở Nga đến 400S ở Argentina. Trong khi cải thiện giống chiếm ưu thế ở
châu Mỹ, Trung Quốc và Australia, các phương pháp chọn lọc truyền thống ở châu
Phi và một số quốc gia ở châu Á. Năm 2004, khoảng 75% vùng trồng lúa miến ở Ấn
Độ là các giống lai so với 1% ở năm 1960.
Yêu cầu điều kiện sinh thái cây lúa miến
Theo William (2007), đặc điểm thích nghi của cây lúa
miến ngọt như sau: Vĩ độ: 400B - 400N. Độ cao so với mặt
nước biển: lúa miến ngọt có thể tìm thấy ở độ cao từ mực nước biển đến 1500m, hầu
hết Đông phi thì sinh trưởng giữa độ cao 900 đến 1500m, và các loài chịu lạnh
có thể sinh trưởng ở độ cao 1600 đến 2500m. Nhiệt độ: có thể sinh trưởng từ 15
– 450C và thích hợp ở 23 – 400C. Độ dài ngày: 10 – 14 giờ.
Lượng mưa Thích hợp 800 – 1200mm, ẩm độ 50%. Bức xạ: lúa miến ngọt là thực vật
C4 nên bức xạ cao sử dụng hiệu quả. Quang kỳ: hầu hết các giống lúa
miến ngọt lai rất nhạy cảm với quang kỳ. Đất: thịt đỏ hoặc đen với pH 6,5 –
7,5, OM >0,6%, độ sâu >80cm, tỷ trọng <1,4gcc, khả năng giữ nước
>20%, N= >260kg/ha, P= > 12kg/ha, K= > 120kg/ha. Đặc điểm thích nghi:
lúa miến ngọt có khả năng thích nghi rộng. Nó có tính kháng hạn, ngập lụt và mặn
tốt. Nước: mặc dù lúa miến ngọt sẽ sống được với sự cung cấp ít hơn 300mm/mùa.
Lúa miến ngọt cần lượng nước tưới tiêu hoặc mưa từ 500 – 1000mm để đạt năng suất
cao 50 – 70 tấn sinh khối (khối lượng chất tươi). Khô hạn: thuận lợi quan trọng
của cây lúa miến ngọt là tính kháng các điều kiện bất lợi. Thụ phấn: thụ phấn
nhờ gió và côn trùng.
Giá trị
kinh tế cây lúa miến làm thức ăn gia súc và nhiên liệu sinh học
Cây lúa miến có nhiều mục đích sử dụng như là cây trồng
làm thức ăn chính cho hàng triệu người vùng nhiệt đới bán khô hạn của châu Phi
và châu Á. Hạt của nó được dùng làm thức ăn cho động vật ở Thái Lan, Australia.
Ở châu Phi, thân của nó được dùng làm nhiên liệu. Cây lúa miến cũng được trồng
làm cỏ tươi. Đối với loài lúa miến ngọt còn sử dụng làm xi rô. Hạt cây lúa miến
được dùng làm bánh mì, bánh ngọt, bột, đường, sy rô, cồn, bia và sản xuất men (Bantilan
và ctv, 2004)
Theo Almodares và Hadi (2009), lúa miến ngọt có 2 bộ phận
sử dụng để sản xuất ethanol là hạt và thân cây. Quá trình sản xuất ethanol từ
thân lúa miến ngọt như sau: thân cây được ép bởi một chuỗi máy nghiền. Kết quả
thu được dịch ngọt và bã. Bã được xử lý để sản xuất enzym đồng thời hóa đường
và lên men tiếp tục chưng cất, khử nước thu được ethanol và lignin, chất rắn. Dịch
thu được đưa qua sàng lọc, tiệt trùng bằng cách đốt nóng lên đến 1000C,
sau đó được lọc sạch bằng cách đưa qua máy lọc chân không. Sau đó dịch được cho
bay hơi để cô đặc (xi rô). Dịch cũng có thể cho lên men. Xi rô cần để cất giữ
phải cô đặc để đạt tối thiểu 650 brix (thông thường 850 brix).
Quá trình lên men dựa vào hóa học, sinh hóa và vi sinh học. Dịch ép hay xi rô
được chuyển thành ethanol nhờ men Saccharomyces
cerevisiae. Công đoạn tiếp theo là chưng cất và khử nước. Trong quá trình
chưng cất, cồn từ sự ủ men đã được cô đặc đến 95% và tiếp tục cô đặc ethanol đến
mức 99,6% (mức tối thiểu). Quá trình sản xuất ethanol từ hạt lúa miến ngọt giống
như từ hạt bắp. Hạt sau khi rửa sạch, xay nát. Nguyên liệu tinh bột được nấu
thành gelatin, hóa lỏng và hóa đường sử dụng men α-amylase và glucoamylase để tạo ra glucose. Lên
men, cô đặc và khử nước giống như thân lúa miến ngọt. Tuy nhiên các phụ phẩm từ
hạt không giống như từ thân vì các viên khô dễ tan có hàm lượng chất dinh dưỡng
cao được sử dụng cho chăn nuôi công nghiệp.
Lúa miến
có ưu thế cạnh tranh cao để sản xuất ethanol vì nó có thể trồng tại các vùng
bán khô hạn, gần hoang hóa, nơi không thể trồng lúa gạo. Lúa miến ngọt sử dụng làm nhiên liệu sản xuất ethanol có lợi
hơn so với sử dụng mía, ngô bởi vì lúa miến ngọt sử dụng nước bằng ½ so với ngô
và 1/8 so với mía và giá canh tác của lúa miến ngọt thấp hơn mía. Theo
hãng Rusni Distilleries (Ấn Độ) cho biết, để chạy một nhà máy ethanol
sinh học công suất 40 tấn/ngày, cần 6.800 hecta lúa miến ngọt giống bình thường
hoặc 4.500 ha nếu giống tốt (William, 2007).
Một số hình ảnh về cây lúa miến:
Lúa miến trồng thuần
Giống lúa miến PVK801
Giống lúa miến ICSV574
Lúa miến được trồng xen trong Khoai mì (Sắn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét