Sắn (Manihot
esculenta) có 2n=36,
là cây tinh bột quang hợp theo chu trình C4. Cây sắn là cây lương
thực quan trọng thứ năm trên thế giới và là thứ ba
ở Việt Nam. Sắn dễ trồng, ít vốn đầu
tư, dễ chế biến xuất khẩu, đạt lợi nhuận và lợi thế cạnh tranh cao.
Sắn là loại cây trồng có thể sử dụng làm lương thực, thức ăn gia súc và nguyên
liệu công nghiệp. Củ
sắn được dùng để ăn tươi, sắn lát khô, chế biến tinh bột. Từ sắn củ tươi
hoặc từ các sản phẩm sắn sơ chế tạo thành hàng loạt các sản phẩm công nghiệp
như bột ngọt, rượu cồn, mì ăn liền, gluco, xiro, bánh kẹo, mạch nha, kỹ nghệ
chất dính (hồ vải, dán gỗ), bún, miến, mì ống, mì sợi, bột khoai, bánh tráng,
hạt trân châu, phụ gia thực phẩm, phụ gia dược phẩm. Củ sắn cũng là nguồn nguyên
liệu chính để làm thức ăn gia súc. Thân sắn dùng để làm giống, nguyên liệu cho
công nghiệp xenlulô, làm nấm, làm củi đun. Lá sắn non dùng làm rau xanh giàu
đạm. Lá sắn dùng trực tiếp để nuôi tằm, nuôi cá. Bột lá sắn hoặc lá sắn ủ chua
dùng để nuôi lợn, gà, trâu, bò, dê,… Chế biến tinh bột sắn, sản xuất rượu cồn
và phát triển hàng loạt các sản phẩm từ tinh bột sắn biến tính như bột ngọt, xi
rô, gluco, mì ăn liền, bánh kẹo, mạch nha, kỹ nghệ chất phụ gia dược phẩm… là
những hướng chính trong chế biến sắn côn nghiệp. Tinh bột sắn có những ứng dụng
hết sức rộng rãi trong công nghiệp thực phẩm, dược liệu, công nghiệp lên men,
công nghiệp dệt và công nghiệp giấy. Ở Việt Nam, cây sắn đang chuyển đổi nhanh
chóng từ vai trò cây lương thực, cây thức ăn gia súc thành cây công nghiệp.
Phân loại cây sắn
Giới : Plantae
Không phân hạng: Magnoliophyta
Lớp : Magnoliopsida
Bộ : Malpighiales
Họ : Euphorbiaceae
Họ phụ : Crotonoideae
Tộc : Manihoteae
Chi : Manihot
Loài : M.
Esculenta
Nguồn gốc
Cây sắn được người Bồ Đào Nha đưa
đến Congo (châu Phi) khoảng thế kỷ 16. Tài liệu nói tới sắn ở vùng này là của
Barre và Thevet viết năm 1558. Ở châu Á, sắn được nhập vào Ấn Độ khoảng thế kỷ
17 (Rajendran và ctv, 1995) và
SriLanka đầu thế kỷ 18 (Bandara và Sikurajapathy, 1992). Cây sắn đựơc nhập vào
Việt Nam khoảng giữa thế kỷ 18 nhưng hiện chưa có tài liệu chắc chắn về nơi
trồng và năm trồng đầu tiên (Phạm Văn Biên và Hoàng Kim, 1991). Sắn được nhập
vào Trung Quốc, Myanmar và các nước châu Á khác khoảng cuối thế kỷ 18, đầu thế
kỷ 19 (Baiping, 1992; Than, 1992)
Phân bố
Sắn được trồng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới ở 30OB - 30ON (CIAT, 1993). Tại Việt Nam, sắn
được trồng hầu hết ở các tỉnh từ Bắc đến Nam, nhiều nhất tại vùng Đông Nam Bộ
(130800 ha) và Tây Nguyên (129.900 ha). (nguồn:
Hoàng Kim, 2010).
Lịch
sử phát triển
Theo Hoàng Kim (2009), cây sắn được
người Bồ Đào Nha đưa đến Congo
(châu Phi) khoảng thế kỷ 16. Tài liệu nói tới sắn ở vùng này là của Barre và
Thevet viết năm 1558. Ở châu Á, sắn đã được nhập vào Ấn Độ khoảng thế kỷ 17
(Rajendran và ctv, 1995) và
SriLanka đầu thế kỷ 18 (Bandara và M Sikurajapathy, 1992). Cây sắn đã được nhập
vào Việt Nam khoảng giữa thế kỷ 18 nhưng hiện chưa có tài liệu chắc chắn về nơi
trồng và năm trồng đầu tiên (Phạm Văn Biên và Hoàng Kim, 1991). Sắn đã được
nhập vào Trung Quốc, Myanmar và các nước châu Á khác khoảng cuối thế kỷ 18, đầu
thế kỷ 19 (Baiping, 1992; Than, 1992).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét